Suy ngẫm từ đề thi chuyên Ngữ Văn: Học phong và giá trị

Suy cho cùng, trong cuộc sống bình thường này, không ai bị buộc phải nhất định trở nên một tài năng, tài hoa, ngoại trừ người ta được trao tặng một khả năng đặc biệt.

Đây là một cách hiểu về đề thi môn Ngữ văn chuyên năm học 2020-2021 của Trường THPT Chuyên Khoa học xã hội & nhân văn thuộc Trường Đại học KHXH&NV – ĐHQGHN.

Đề thi chính thức môn Ngữ văn chuyên năm học 2020-2021 của Trường Trung học phổ thông Chuyên Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN) có cấu trúc quen thuộc; nội dung đề ngắn gọn như sau:

Câu I – Nghị luận xã hội (4,0 điểm)
Phải chăng lắng nghe người khác là đánh mất cơ hội thể hiện bản thân?
Câu II – Nghị luận văn học (6,0 điểm)
Nhà thơ Xuân Quỳnh đã viết:
Thơ đối với cuộc sống ví như một người con gái đối với gia đình, cái để cho người ta làm quen là nhan sắc, nhưng cái để sống với nhau lâu dài lại là đức hạnh.
(Theo Ý thức và thời gian, Tạp chí Văn nghệ quân đội tháng 9 năm 1973)
Từ trải nghiệm văn học của bản thân, em hãy bàn luận về ý kiến trên.

Bản chất của đề thi là một giá trị để đo giá trị

Một đề thi có cấu trúc mới mẻ, khác thường, gây hứng thú cho lứa tuổi học sinh,  xét về mặt giá trị, cũng không có gì chênh lệch với một đề thi có cấu trúc quen thuộc.

Tính chất cũ kĩ của tư duy không nằm ở cấu trúc đề thi. Vậy nên cấu trúc đề thi giản dị và quen thuộc như kiểu đề này không phải là cái đáng để bàn cãi hoặc phán xét.

Về mục đích, đề thi chuyên văn là thử thách để tìm kiếm những học sinh tiềm ẩn khả năng văn chương như một tư chất, tố chất và phẩm chất. Khả năng ấy phải được thể hiện qua:

– Cách đọc ra vấn đề

– Cách đọc ra ngữ cảnh của vấn đề

– Cách đọc ra ẩn ý, ngụ ý của người ra đề

– Cách đọc ra ý nghĩa của việc giải quyết vấn đề

– Cách đọc ra sự thể hiện của bản thân với thử thách của vấn đề

Vậy, đề thi, về bản chất, là một giá trị để đo giá trị.

Mặt khác, văn chương không chỉ là một cái gì thuộc về một ngành, một môn học, càng không phải chỉ để thi cử. Cốt tuỷ của đề thi chọn học sinh giỏi văn là phát hiện được những con người biết dùng cách đọc và cách viết của mình để chứng minh rằng: ngôn từ có sức mạnh biểu thị; hiểu biết tâm hồn và hiểu biết xã hội là điều tối quan trọng để nhận thức ý nghĩa đời sống.

Đề thi là một cách để cả thầy và trò khám phá lại sức sống của văn chương và làm dồi dào những nhận thức về xã hội, con người, thời cuộc. Người thi làm mới lại người dạy, người chấm.

Một đề thi cho phép người ta được “tự do” là một đề thi có nội lực, vì sự tự do đó mang lại một chân trời khác rộng rãi hơn cho tư duy của các bên: người ra đề, người làm bài, người chấm thi, người quan sát.

Phải chăng lắng nghe người khác là đánh mất cơ hội thể hiện bản thân?”. Đây là một câu hỏi. Nó chắc chắn không phải là một kiểu “tiên đề”, càng không phải là một chân lí. Nó hoàn toàn tự do, cả trong nội dung phát ra lẫn yêu cầu thực hiện. Yếu tính tự do của đề thi là thước đo khả năng tự do nhận thức của thí sinh. Phát biểu được chọn bình luận trong một đề thi không nhất thiết phải do một ai đó nổi tiếng nói ra thì mới làm cho cái đề trở nên sang trọng.

Nguyễn Đình Chiểu viết: “Ba ngàn thế giới ta là vô danh”.  Vô danh cũng quý, nếu vô danh mà sâu thẳm. Câu hỏi nghị luận xã hội yêu cầu thí sinh bày tỏ bình luận bất kì về sự “lắng nghe” đi cùng hệ quả “đánh mất cơ hội thể hiện bản thân”.

Phát biểu “vô danh” này có lý do để bàn bạc. Nghe là khó, lắng nghe càng khó. Nghe mà không đánh mất mình càng khó. Nghe nhau cũng khó. Nghe chính mình càng khó.

Trong chuỗi các suy ngẫm đó, đâu là sự “đánh mất bản thân”? Đặt vấn đề như vậy rèn giũa cho người học một tư duy triết học (sơ khai) trong cách nghĩ và viết về văn học.

Điều đó cần không? Một học sinh học hết lớp 9 có thể nghĩ ra được những khả năng này không? Có thể có, có thể không. Nhưng tặng họ một bình nguyên chọn lựa và tư duy, có sao đâu. Chạm được tới đâu là câu chuyện những bước đi của tài năng.

Người ta có thể so sánh danh ngôn, phát biểu của đề thi này với danh ngôn, phát biểu của đề thi khác. Nhưng giá trị của một phát ngôn còn thuộc về lịch sử tư duy và phong cách tư duy của một học phái, học phong, nhất là học phong của một trường đại học.

Chạm tới tinh thần phản biện tự thân

Đề nghị luận xã hội này đã ít nhiều chạm tới một tinh thần phản biện tự thân. Mặt khác, nó xuất hiện như một hệ quả dòng chảy học phong có bề dày về nhận thức dân tộc, con người, xã hội được hun đúc trong một lịch sử đầy đặn các công trình về khoa học xã hội, nhân văn tại trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN, tiền thân là Đại học Tổng hợp Hà Nội.

Tinh thần triết học phóng khoáng và sự yêu chuộng hàn lâm chẳng bao giờ lạc lõng trong bối cảnh nền giáo dục hiện đại, nếu không nói là cốt tuỷ. Tôi cho rằng, câu hỏi này rất xứng đáng là một cách đặt vấn đề có đẳng cấp về tư duy khoa học xã hội. Nó đủ sâu để tìm kiếm những ngòi bút tuy còn thiếu thời nhưng đã biết thao thức.

Câu nghị luận văn học “có vẻ” như một phát biểu cũ và “dễ” mang đến cảm giác “vấn đề cũ”, “cách nói cũ”: Thơ đối với cuộc sống ví như một người con gái đối với gia đình, cái để cho người ta làm quen là nhan sắc, nhưng cái để sống với nhau lâu dài lại là đức hạnh. (Xuân Quỳnh). Nhưng “có vẻ” và “dễ” thuộc về tâm lý cảm nhận, thói quen tư duy; nó không hẳn là bản chất của chiều sâu ý nghĩa một phát ngôn liên quan đến thơ ca.

Xuân Quỳnh là nhà thơ lớn. Xuân Quỳnh có thể có những ví von, so sánh nào đó khác về thơ một cách mới mẻ và đỡ bị “cảm giác cũ” hơn.  Song, lối ẩn dụ trong phát biểu trên, một cách công bằng mà nói, rất Xuân Quỳnh: tài hoa và nữ tính, bản năng và truyền thống.

– Thơ với cuộc sống là một thứ tình yêu (người con gái đối với gia đình)

– Thơ hấp dẫn người ta bởi “nhan sắc” (làm quen)

– Thơ lưu lại với lòng người bởi “đức hạnh”(sống lâu dài)

“Từ bao giờ đến bây giờ, từ Homero đến kinh thi, đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế” (Hoài Thanh). Những bình luận về mục đích và bản chất thơ ca về cơ bản đều nhắm đến phẩm chất vĩnh cửu của nó.

Vĩnh cửu luôn là một cái gì đó thuộc về sự mơ mộng của loài người. Con người luôn phải đứng trước và chấp nhận những thứ không vĩnh cửu.

Bởi thế, vĩnh cửu là một giá trị. Phát biểu của Xuân Quỳnh dù lấy một mô hình cũ (người con gái đối với gia đình) nhưng sự sâu sắc của mô hình ấy không có giới hạn. Nó thuộc về khao khát vĩnh cửu.

Người ta có quyền đặt câu hỏi: tại sao cứ nói đến phụ nữ và gia đình thì sẽ cũ? Không! Cuộc sống không bao giờ cũ. Cách nói cũ, cách ví von gần gũi, quen thuộc không có nghĩa là tất yếu nó chẳng có gì để khám phá và xuyên thấu.

Đề thi không có câu lệnh định hướng Xuân Quỳnh luôn đúng, cũng không có định hướng về ý nghĩa xã hội học trong phát biểu này là đúng, càng không có định hướng về bất bình đẳng giới trong phát ngôn về thơ. Không có gì chứng minh rằng đề thi đã có sự định hướng “phải viết theo hướng tán tụng” hoặc chỉ có thể bình luận một chiều mới được xem là tài năng.

Mọi so sánh đều không hoàn thiện, và vì không hoàn thiện nên người ta mới phải so sánh! Xuân Quỳnh có nhiều cách để so sánh (đó là điều chắc chắn, người giỏi thơ như chị thì thiếu gì cách nói) nhưng nói kiểu này thì dễ cho chị, gần với chị (dù rất dễ bị xem là không hoàn thiện, lạc hậu) mà vẫn đầy đặn ý nghĩa.

Tôi có niềm tin rằng một người làm thơ đưa ra ý kiến về thơ không bao giờ dám cho đó là chân lí của tất cả, nhưng chắc chắn rằng họ tin nó duy nhất đúng với họ.

Bản chất của người nghệ sĩ đích thực nằm ở chỗ tin điều mình sáng tạo là thật nhất với mình, là cuộc sống của mình, là ước lệ gần gũi nhất của mình, là cảm hứng lớn nhất. Do đó, rất ít lý do để “chê” Xuân Quỳnh cũ chỉ bởi vì “chúng tôi thấy nó cũ”.

Ý nghĩa của đề thi chuyên không chỉ nằm ở đáp án. Đôi khi, nó nằm ở cả sự thao thức, lúng túng và cả những tìm tòi bất chợt trong phòng thi và cả sự náo loạn vang âm của xã hội về nó. Một đề thi gây tranh cãi, đừng nghĩ nó thiếu giá trị, mà ngược lại, có khi nó đang khơi nguồn cho nhiều giá trị.

Cách ví von của Xuân Quỳnh trong trường hợp này dẫn đến một số hàm nghĩa sau:

– Tình yêu của thơ ca đối với cuộc sống là sự gắn bó đến mức thiêng liêng (khái niệm gia đình), là sự tương tác trách nhiệm (người con gái lo toan), là sự tìm kiếm một kết giao vĩnh cửu (mong muốn xây đắp mái ấm bền vững).

Thơ ca thiêng liêng, tận tuỵ, tận sống, hằng cửu, đó là một cách nhìn của Xuân Quỳnh. Tại sao cách nhìn đó nhất thiết phải trở thành lý luận? Tại sao Xuân Quỳnh phải trở thành nhà lý luận. Điều đó là không công bằng.

– “Nhan sắc” và “đức hạnh” là những thứ được biểu tượng hoá cho hai báu vật của người nữ, hai báu vật của nghệ thuật: Vẻ đẹp được nhìn thấy và vẻ đẹp được cảm thấy, đụng chạm.

Chế Lan Viên từng phát biểu đại ý rằng: cảm xúc của thơ thì có cảm xúc ngoài da và cảm xúc trong lòng. Dĩ nhiên thực tế thì không có khái niệm “cảm xúc ngoài da” nhưng đó là cách nói ẩn dụ mà những ai sống với văn chương đều không khó khăn để hiểu.

Không ai bị buộc phải nhất định trở nên một tài năng

Việc áp đặt lý luận văn học vào phát ngôn của nhà thơ là cách phối ghép thiếu triển vọng và có thể làm cằn cỗi tư duy (Nếu đáp án của đề thi này đi theo hướng đó thì hơi đáng tiếc).

Thực ra, những cảm nhận bản năng có lúc còn chính xác gấp nghìn lần những suy luận khoa học, nhất là trong văn chương nghệ thuật. “Nhan sắc” mà Xuân Quỳnh nói không phải là hình thức thơ, “đức hạnh” mà Xuân Quỳnh nói không phải là nội dung thơ.

Sự tách biệt đó là sản phẩm của thói quen nghĩ về lối dạy cũ kĩ, thói quen phản biện nhanh như một niềm hứng thú phản ứng xã hội. Xuân Quỳnh đang nói về một quan hệ tương giao tương cảm từ bên trong. Góc nhìn của Xuân Quỳnh có thể đã chứa đựng hàm nghĩa rằng:

– Một bài thơ đẹp sẽ hấp dẫn người đọc ngay lập tức;

– Một bài thơ đẹp được phát hiện sâu dần vào trong sẽ sống với người đọc mãi mãi;

Như vậy, không có hai bài thơ ở đây, không có hai trạng thái hình thức và nội dung, không có nguyên tắc nội dung quan trọng hơn hình thức. Cái đẹp được triển nở nhiều chiều, mỗi chiều đều mang lại giá trị và giá trị cao nhất là lưu trú vĩnh viễn trong trái tim con người.

Một bài thơ có thể được phát hiện nhiều lần, đẹp một lần và mãi mãi; hoặc phải được khám phá bởi người đọc tri âm để nó được sống thêm những kiếp đẹp khác.

Cái đẹp của “nhan sắc” là cái đẹp được nhìn thấy, nó nối kết tất cả chúng ta ở cái nhìn đầu tiên. Cái đẹp của “đức hạnh” là cái đẹp được “phát hiện”, được “khám phá”, “đụng chạm” và nối kết chúng ta ở sự gắn bó cuối cùng. Ngôn ngữ mà Xuân Quỳnh dùng để nói về thơ là ngôn ngữ của tình yêu, của một người đã yêu “tận cùng đau xót”.

Hãy đọc Xuân Quỳnh bằng chính hồn thơ của bà, kể cả những phát ngôn có màu sắc “truyền thống”, vì bà chẳng dẫn đường cho ai, ngoài dẫn cho chính mình.

“Đức hạnh” là một nhãn tự nhạy cảm, tinh tế nhất trong phát biểu của Xuân Quỳnh:

 Nhạy cảm, vì nó dễ làm người ta “bật lò xo” về câu chuyện đạo đức, đạo hạnh, gia phong, công dung ngôn hạnh của phụ nữ trong “xã hội xưa”;

Tinh tế, vì nó chứa nhiều tầng ý nghĩa đan xen cùng lúc. Trong những ngày tháng ngẫm nghĩ về thơ thiền tông, tôi có viết rằng: “Nỗi buồn có “đức hạnh” của nó khi tham dự vào cuộc chơi sáng tạo, chỉ khi nào không đủ sâu sắc và chân thật, nỗi buồn mới là cái gì đó “tiêu cực”.

Đức hạnh là biểu tượng về tinh hoa của cái bên trong, là phẩm tính bền vững. Thơ có giá trị từ bên trong, là nền tảng của vẻ đẹp vĩnh cửu. Điều đó có gì sai?

Tam giác: tình yêu – nhan sắc – đức hạnh không phải là một phát hiện tồi về hơi thở của thơ ca, hiện thân của nó và dư vang của nó. Cuộc đời thơ của Xuân Quỳnh đã làm chứng cho sự thật ấy.

Điều cuối cùng: nhìn toàn diện đây là đề thi khó; khó so với lứa tuổi, nhận thức, kiến văn, va chạm xã hội và khả năng biểu tượng hoá vấn đề; khó cả trong kì vọng của người ra đề. Đó là điều cần nghĩ!

Nhưng, suy cho cùng, trong cuộc sống bình thường này, không ai bị buộc phải nhất định trở nên một tài năng, tài hoa, ngoại trừ người ta được trao tặng một khả năng đặc biệt.

“Đồng thanh tương ứng”, một đề thi nhằm mục đích chọn người tài được quyền gửi gắm những giá trị mà nó chứa đựng, gìn giữ, hé mở, gọi mời. Còn người đi thi, nếu thực sự muốn tìm kiếm thiên tư của bản thân, thì nên chìm xuống nơi sâu sắc của tư duy để chạm tới sự trưởng thành, thay vì mong muốn một đề thi nào đó cần phải “phù hợp” và luôn “phù hợp” với kiểu học và phạm vi mà mình có.

Không có sự phù hợp nào đo được món quà của tạo hoá!

Tiến sĩ Lê Thị Thanh Tâm

Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn – ĐHQGHN

(Trích trên báo Dân trí online, đăng ngày 22/07/2020)

Bình giảng Ai đã đặt tên cho dòng sông – Hoàng Phủ Ngọc Tường

I. Chuẩn bị tri thức
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 ở Huế, quê ở Quảng Trị, là nhà thơ có phong cách độc đáo và đặc biệt sở trường về thể loại bút kí, tùy bút. Ông là một trong những cây bút viết nhiều về Huế, cả thơ và bút kí. Tô Hoài đã nhận xét: “Hoàng Phủ Ngọc Tường trầm cả tâm hồn trong khuôn mặt cuộc đời cùng với đất trời, sông nước của Huế”.
Kia rồi Hoàng Phủ Ngọc Tường trên đại lộ, lúc ấy anh đã có thêm Ai đã đặt tên cho dòng sông?, tập bút kí thứ 3 khiến dư luận đồng thanh trầm trồ, anh đúng là một ông hoàng của thể kí, sân chơi ai cũng có thể dạo qua nhưng được độc gải tôn vinh thì không dễ.
(Theo Dạ Ngân)
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong số rất ít nhà văn viết bút kí nổi tiếng ở nước ta vài chục năm nay. Bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường hấp dẫn người đọc ở tấm lòng nhân văn sâu sắc, trí tuệ uyên bác và chất Huế thơ mông, huyền hoặc, quyến rũ. Đó là những trang viết tài hoa, tài tử, tài tình.
Thực ra, bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là những áng thơ văn xuôi cuốn hút người đọc. Có độc giả ở Hà Nội đã công phu cắt từng câu trong bút kí nổi tiếng Ai đã đặt tên cho dòng sông? của anh xếp lại thành một bài thơ.
(Theo Tô Hoài)

Lai lịch dòng sông thơm
Tên sông Hương có tự bao giờ ? Nước sông Hương có thơm thật không ?
Theo các sách cổ, trước khi mang tên sông Hương, con sông này tùy theo thời gian có những tên khác nhau.
Sách Dư dịa chí của Nguyễn Trãi (1435) viết là sông Linh.
Sách Ô châu cận lục do Dương Văn An nhuận sắc vào năm 1555, viết là sông cái Kim Trà (Kim Trà đại giang).
Sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn viết lại gọi là sông Hương Trà (Hương Trà nguyên).
Nhiều tài liệu khác cho biết sông Hương đã từng mang tên sông Lô Dung, sông Dinh, sông Yên Lục.
Từ năm 1469, dưới thời Lê Thánh Tông, Kim Trà là tên của một huyện ở phủ Triệu Phong thuộc thừa tuyên Thuận Hóa. Đến khi Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng vào trấn phủ Thuận Hóa (1558), huyện Kim Trà được đổi tên là Hương Trà.
Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An, “Xưa nay, người ta thường gọi tên một con sông bằng tên của vùng đất mà nó chảy qua. Vào các thời kì lịch sử nói trên, khi vùng đất ấy còn mang tên là huyện Kim Trà thì con sông chúng ta đang nói đến là huyện Kim Trà. Sau đó, khi tên huyện đổi thành Hương Trà thì tên sông cũng đổi theo: sông Hương Trà. Từ sông Hương Trà đến sông Hương chỉ còn một bước, vì trong, bất cứ ngôn ngữ nước nào, dân gian thường hay rút gọn. Vả chăng, hai chữ sông Hương đẹp quá, giới văn chương trí thức cũng không muốn gì hơn.”
Ngoài các bộ địa chí và sử sách vừa nêu, còn có một tư liệu lịch sử bổ sung, củng cố thêm cho lập luận địa danh sông Hương chính là do địa danh huyện Hương Trà và sông Hương Trà mà ra. Tư liệu ấy là sách Đại Nam thực lục của triều Nguyễn. Ở phần “đệ nhất kỉ” nói về thời Gia Long được biên soạn từ năm 1821 và khắc in vào năm 1848, Quốc sử quán triều Nguyễn đã viết rằng: Vào ngày Bính Thân tháng 7 năm Tân Dậu, (8-1801), “vua đi Quảng Bình… Thuyền ngự khởi hành từ sông Hương tức là sông Hương Trà…”.
Như vậy, căn cứ vào các tư liệu thành văn dẫn trên, chúng ta có thể khẳng định rằng, cái tên sông Hương là do địa danh Hương Trà được rút gọn lại từ khoảng cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX.
Có lẽ vì thế mà theo nhiều tài liệu của người Pháp đến Huế hồi nửa sau thế kỉ XIX, họ gọi sông Hương là sông Huế.
Khi đúc bộ Cửu Đỉnh bằng đồng vào năm 1836, vua Minh Mạng cho khắc nổi hình ảnh sông Hương lên Nhân Đỉnh và ngay tại đó khắc liền hai chữ Hán “Hương giang” như ta còn thấy trước sân Thế Miếu trong Hoàng thành ngày nay.
(Theo Nguyễn Đắc Xuân)

Bút kí: Thể loại thuộc hình kí, thường có quy mô tương ứng với truyện ngắn, nhưng khác với truyện ngắn ở chỗ tác giả không sử dụng hư cấu vào phản ánh hiện thực.
Bút kí ghi lại những con người và sự việc mà nhà văn tìm hiểu và nghiên cứu cùng với những cảm nghĩ của mình nhằm thể hiện một tư tưởng nào đó. Sức hấp dẫn và thuyết phục của bút kí tùy thuộc vào tài năng, trình độ quan sát, nghiên cứu khám phá, diễn đạt của tác giả đối với hiện tượng, sự việc được đề cập đến nhằm khám phá những khía cạnh “có vấn đề”, những ý nghĩa mới mẻ, sâu sắc.
Bút kí có thể thuộc về văn học, có thể thuộc về báo chí tùy theo mức độ biểu hiện cái riêng của tác giả và mức độ sử dụng các biện pháp nghệ thuật cùng với tính chất tác động của nó đối với công chúng.
(Từ điển thuật ngữ văn học)

II. Hướng dẫn đọc
Có nhiều người viết về sông Hương, núi ngự của xứ Huế. Bài bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường là bài kí ca ngợi vẻ đẹp dòng sông Hương, khảo cứu dòng sông Hương từ thượng nguồn cho đến hạ lưu. Xuôi dòng sông Hương, ngang qua cố đô Huế, tác giả ca ngợi lịch sử vẻ vang của Huế, ca ngợi nền văn hóa và tâm hồn người Huế. Sinh ra ở Huế, gắn bó với Huế bằng một tình cảm thiết tha chân thành, tác giả đã huy động những hiểu biết của mình về văn hóa xứ Huế, cùng với vốn ngôn ngữ phong phú để phát hiện và diễn tả vẻ đẹp và chất thơ của Huế thể hiện tập trung ở dòng sông Hương như một biểu tượng của Huế. Vẻ đẹp của Hương giang được Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện qua cảm nhận của nhân vật “tôi”, hình tượng của chính tác giả, và miêu tả dòng sông Hương từ nhiều góc độ: cảnh sắc thiên nhiên, văn hóa và lịch sử, cùng với những liên tưởng bất ngờ. Đọc bài bút kí (đoạn trích trong SGK), chú ý đến cách miêu tả vẻ đẹp đó của dòng sông Hương, đồng thời phát hiện những cảm xúc, trí tưởng tượng qua các hình ảnh trong bài bút kí, từ đó có thể khái quát được một số đặc điểm về văn phong của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bài kí này.
Sông Hương giữa đại ngàn Trường Sơn mang vẻ đẹp của cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại. Dòng sông chảy giữa núi rừng rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và được rừng già hun đúc một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Có lúc sông Hương cũng dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của hoa đỗ quyên rừng. Sông Hương, cô gái Di-gan, dịu dàng và trí tuệ khi ra khỏi rừng già thì trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Dòng sông Hương phía thượng nguồn, dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, mang một vẻ đẹp hết sức hấp dẫn và kì thú, giống như cô gái Di-gan ẩn chứa bao nhiêu điều mới lạ đối với người đọc, ngay cả người đọc là con người xứ Huế.
Qua khỏi rừng già, dòng sông uốn khúc qua bao nhiêu địa danh văn hóa: ngã ba Tuần, điện Hòn Chén, Nguyệt Biều, Lương Quán, Thiên Mụ rồi mới xuôi dần về Huế. Dòng sông Hương mang nhiều vẻ đẹp khác nhau: trở nên xanh thẳm, mềm như tấm lụa, mơ màng trong sương khói, vẻ đẹp trầm mặc, như triết lí, như cổ thi, lại mang âm hưởng ngân nga của tiếng chuông chàu Thiên Mụ. Với vốn ngôn từ phong phú, với sức tưởng tượng dồi dào, qua đôi mắt tinh tường và tâm hồn khoáng đãng của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông Hương trở nên đẹp hơn, đáng yêu hơn. Sông Hương trong bài kí không còn là dòng sông bình thường mà đó là con người, cũng mang những tính cách, khi thì dữ dội, mãnh liệt, khi thì dịu dàng, êm ái, như một cô gái giàu cảm xúc. Những kiến thức về địa lí, văn hóa, lịch sử đã giúp tác giả miêu tả khá tỉ mỉ sông Hương, nhất là về lưu vực hướng chảy của nó.
Khi đi ngang qua Huế, sông Hương trở nên vui tươi hẳn lên. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh tác động vào giác quan người đọc. Hình ảnh chiếc cầu (cầu Tràng Tiền) được miêu tả rất ấn tượng: nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non, hình dáng thì uốn cong như một cánh cung rất nhẹ.
Được nhìn từ góc độ văn hóa, lịch sử, sông Hương là nơi sinh ra nền âm nhạc cổ điển Huế, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này. Sông Hương gợi nhớ về Nguyễn Du bao năm lênh đênh trên quãng sông này liên tưởng đến Truyện Kiều và tiếng đàn của Kiều, gợi đến những câu thơ của Tản Đà và Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan, Tố Hữu,… Sông Hương còn mang vẻ đẹp lịch sử, từng là dòng sông bảo vệ biên thùy thời Đại Việt, từng là bóng kinh thành Phú Xuân thời Nguyễn Huệ, từng chứng kiến bao cuộc khởi nghĩa, rồi đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, chiến dịch Mậu Thân 1968,…
Ai đã đặt tên cho dòng sông? là bài bút kí tiêu biểu cho phong cách Hoàng Phủ Ngọc Tường ở thể kí. Dòng sông Hương được tác giả miêu tả từ nhiều góc độ, với nhiều phương pháp để vừa khảo sát, vừa trữ tình. Hoàng Phủ Ngọc Tường có cách sáng tạo hình ảnh riêng: vừa tả thực, vừa so sánh, ẩn dụ vừa tạo ra những liên tưởng bất ngờ, cùng với hình ảnh giàu đường nét, màu sắc và có cả âm thanh. Sông Hương còn được nhìn từ nhiều phía: nhìn từ đôi mắt của người nghệ sĩ lãng du về cảnh sắc thiên nhiên, nhìn từ văn hóa lịch sử để khám phá chiều sâu ý nghĩa toát lên từ dòng sông,… Văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường giàu chất thơ, có khi cao hứng cũng bay bổng, cũng không kém phần lãng mạn.

Hướng dẫn Đọc văn – Làm văn lớp 12 (Nguyễn Hữu Lễ – NXBGD)

Bình giảng Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân

I. Chuẩn bị tri thức
Nguyễn Tuân (1910-1987) sinh ra trong một gia đình truyền thống lâu đời ở đất Hà thành. Ông là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, là nhà văn có cá tính và có phong cách nghệ thuật độc đáo. Trước cách mạng, Nguyễn Tuân là nhà văn lãng mạn cuối cùng. Sau cách mạng, ông là người đi nhiều, viết nhiều. Ông sáng tác truyện ngắn và tùy bút nhưng nổi tiếng với thể loại tùy bút. Khi nhắc đến Nguyễn Tuân, người ta thường nghĩ đến chữ “ngông”, không chỉ trong cuộc sống mà cả trong văn chương.
Nguyễn Tuân bước vào nghề văn như để chơi “ngông” với thiên hạ. “Ngông” là một sự chống trả với mọi thứ nền nếp, phép tắc, mọi thứ “đạo lí” thông thường của xã hội bằng cách làm ngược lại với thái độ ngạo đời. Nhu cầu “chơi ngông” buộc Nguyễn Tuân phải đẩy mọi cái thông thường tới cực đoan, thậm chí tới kì thuyết, nghịch thuyết. Chủ nghĩa độc đáo trong sinh hoạt tất dẫn đến lối sống lập dị, trong sáng tác tất dẫn đến bất chấp nội dung ý nghĩa nghiêm túc, tha hồ phóng bút để ném những gì kì lạ, oái oăm, cầu kì, rắc rối. Cái “ngông” đó không phải do chủ nghĩa cá nhân bế tắc mà do “thiên lương” của một trí thức yêu nước, biết coi trọng nhân cách, muốn tách mình ra và đặt mình lên trên những cái tầm thường của những kẻ thỏa mãn với thân phận nô lệ.
Tuy nhiên cái “ngông” với một số biểu hiện nghệ thuật của nó vẫn để lại những thói quen, những kinh nghiệm có thể dùng được để phục vụ cách mạng. Chẳng hạn giọng khinh bạc của Nguyễn Tuân được phát huy trên lập trường mới là vũ khí lợi hại để đánh vào những kẻ thù của dân tộc và cách mạng. Cái độc đáo, nếu không đẩy tới mức “chủ nghĩa”, là một yêu cầu không thể thiếu của nghệ thuật chân chính.
Nguyễn Tuân mỗi khi cầm bút dường như lại đặt mình trong yêu cầu: phải chứng tỏ được cái tài hoa, uyên bác hơn đời của mình. Ông có thói quen nhìn sự vật ở mặt mĩ thuật của nó, cố tìm cho ra ở đấy những gì nên họa, nên thơ. Đồng thời mỗi đối tượng quan sát của ông là một đối tượng khảo sát đến kì cùng […] Về cái vốn văn liệu, thi liệu của ông đã sử dụng theo tinh thần mới, thường để phát hiện và diễn tả vẻ đẹp tuyệt vời của Tổ quốc mình.
(Nguyễn Đăng Mạnh, Trích bài tựa Tuyển tập Nguyễn Tuân)

Tùy bút là một thể thuộc loại hình kí, gắn với bút kí, kí sự. Nét nổi bật của tùy bút là qua việc ghi chép sự vật, sự việc, con người và sự kiện cụ thể có thực, tác giả chú trọng đến viẹc bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức, đánh giá của mình về con người và cuộc sống hiện đại. So với các tiểu loại khác, tùy bút giàu chất trữ tình hơn cả, tuy vẫn không ít những yếu tố chính luận và chất suy tưởng triết lí. Cấu trúc tùy bút nói chung không bị ràng buộc, câu thúc bởi một cốt truyện cụ thể, song nội dung của nó vẫn được triển khai theo cảm hứng chủ đạo, một tư tưởng chủ đề nhất định. Ngôn ngữ tùy bút giàu chất thơ.
(Từ điển thuật ngữ văn học)

II. Hướng dẫn đọc
Đặt trong tập tùy bút Sông Đà, bài tùy bút Người lái đò sông Đà nằm trong cảm hứng chung về tìm hiểu và phát hiện vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, con người Tây Bắc dưới cái nhìn lịch sử, văn hóa và thẩm mĩ. Phần lược trích ở sách Ngữ Văn 12 (Tập một) chủ yếu tập trung miêu tả con sông Đà và người lái đò trên con sông đó. Con sông Đà trong tác phẩm mang vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng được nhìn bởi hai đôi mắt: đôi mắt của nhà văn và đôi mắt của người lái đò. Dưới đôi mắt của nhà văn, sông Đà là một công trình tuyệt vời của tạo hóa, là môi trường lao động và là “chiến trường” để con người lao động bình thường trở thành chiến sĩ, trở thành anh hùng, là sự gợi nhớ về lịch sử, là cảm hứng nghệ thuật. Dưới đôi mắt của ông lái đò, sông Đà là người bạn tri kỉ, dù đã xa nhau mười năm nhưng ông vẫn nhớ từng khúc sông, từng ngọn thác. Ông lái đò, một người lao động bình thường trở thành một nghệ sĩ chèo thuyển vượt thác, một con người mang những phẩm chất anh hùng: yêu con sông (yêu Tổ quốc), hăng say lao động, thông minh, dũng cảm. Hình ảnh, sự việc được miêu tả trong bài tùy bút đều được thể hiện dưới cảm quan nghệ thuật này.
Để làm cho đối tượng miêu tả trở nên sinh động, hấp dẫn, sông Đà dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân đã trở thành một “nhân vật”, có ngoại hình, có nội tâm, có tính cách, và đặc biệt cũng khá thông minh. Tính cách “nhân vật” sông Đà cũng khá phức tạp: vừa hung bạo vừa trữ tình. Lúc hung bạo thì nó như “kẻ thù” của con người. Lúc trữ tình, nó đầy chất thơ và thân thiết với con người đến nỗi “ như một cố nhân”, xa thì nhớ nhung, lưu luyến.
Bằng những tư liệu phong phú và chính xác, Nguyễn Tuân đã liệt kê một loạt con thác từ đất Vạn Yên trở về Thác Bờ thuộc địa phận tỉnh Hòa Bình, sông Đà hiện liên với quang cảnh hùng vĩ và huyền bí, hoang sơ của một dòng sông chảy giữa điệp trùng rừng núi Tây Bắc.
Về hình dáng: con sông Đà được miêu tả ở nhiều lúc, nhiều khúc, nhiều yếu tố, nhiều góc độ và được miêu tả một cách tỉ mỉ, thể hiện sự quan sát tinh tế và giàu trí tưởng tượng của nhà văn. Đầu tiên là chỗ vách đá dựng đứng hai bên bờ ở khoảng hẹp đến mức đứng bên này bờ, nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Sự dữ dội của dòng nước sông Đà được miêu tả nhiều nhất: có những đoạn ghềnh hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm, có những cái hút nước giữa sông như những cái giếng bê tông, có những thác mà từ xa ta đã nghe tiếng của nó như một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa. Màu sắc của nước của con sông Đà, mùa xuân thì xanh như ngọc bích, mùa thu thì lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa. Từ trên máy bay nhìn xuống, cái dây thừng ngoằn ngoèo sông Đà kia giống như áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn trong mây trời Tây Bắc. Bờ sông Đà thì hoang dại như một bờ tiền sử. Cát sông Đà thì đục thủng gan bàn chân con người, bãi cát hai bên bờ thì từng đàn bướm bay sặc sỡ.
Đặc biệt, theo sát ông lái đò ở từng khúc sông, ngọn thác, tác giả tập trung miêu tả tính cách con sông Đà.
Về tính cách hung bạo, sông Đà như ẩn chứa trong nó một bản chất của loài thủy quái đang rình rập con người đi qua như lúc nào cũng đòi nợ xuýt. Qua được ghềnh Hát Loóng, nơi có sự phối hợp giữa nước, đá, sóng, gió để uy hiếp con người, chiếc thuyền đến chỗ có cái hút nước khủng khiếp. Nước ở cái hút nước thì thở như cái cống bị sặc, mặt nước thì xoáy tít đáy, lừ lừ cánh quạ đàn. Để tô đậm thêm cái nguy hiểm của cái hút nước, nhà văn phối hợp giữa tả và kể, nhiều bè gỗ đi bị cái giếng ấy nó lôi xuống, có thuyền bị cái hút nước nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược,… Nhà văn có vẻ thích thú như muốn khám phá lòng cái hút nước này bằng điện ảnh để xem nét đẹp hung bạo của con sông: Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào cái thuyền thúng tròn vành rồi cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà.
Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Thế mà tiếng thác đã gợi về tính cách hung dữ của con sông và cảm giác rùng rợn cho người đọc. Tiếng nước thác nghe như tiếng con người vừa giận dữ, vừa đau thương khủng khiếp, nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Đến thác nước, tác giả đã chứng kiến thế trận của đá và nước đang phục kích chiếc thuyền đang đi tới rất có kỉ luật, hình như sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Những hòn đá như những bầy thủy quái, vừa hung hăng bạo ngược, vừa nham hiểm xảo quyệt. Đá cùng với nước bày binh bố trận, hò la inh ỏi, thanh la não bạt tạo thành một thế trận để phối hợp nhiều hình thức tác chiến: đánh trực diện, đánh giáp lá cà, đánh phục kích, đánh vu hồi, đánh phòng thủ với ba lớp phòng tuyến vững chắc: hàng tiền vệ làm nhiệm vụ tiền tiêu và đánh trực diện, trận tuyến giữa để đánh bao vây, tuyến ba với những boong-ke chìm và pháo đài nổi để tiêu diệt hết cả tướng và quân.
Cuộc chiến giữa ông lái đò đơn độc với thế trận trùng điệp của thác đá diễn ra thật ác liệt, căng thẳng và không kém phần hấp dẫn. Những trận phản kích tới tấp để tiêu diệt kẻ xông trận là ông lái đò của những đá, những nước cho thấy sự quyết liệt và hung hăng của con sông Đà ở thác nước này đến mức nào. Sự hiểu biết sâu sắc về nghệ thuật quân sự cùng với vốn ngôn từ tuôn ra từ trí tưởng tượng phong phú, Nguyễn Tuân đã cống hiến cho người đọc một bức tranh hoành tráng, một khung cảnh ngoạn mục của hình ảnh ông lái đò chèo thuyền vượt thác.
Về tính cách trữ tình, qua vốn văn hóa, vốn từ vựng giàu có, trí tưởng tượng phong phú của nhà văn, con sông Đà đã hiện liên hết sức dịu dàng và thơ mộng. Ở phía thượng nguồn sông Đà, khi đến gần thì hung hăng, dữ tợn, nhưng khi nhìn ngắm nó từ xa, nhất là trên cao, sông Đà mang đáng vẻ dịu dàng của một người phụ nữ, một nàng tiên nơi chốn “bồng lai tiên cảnh” xứ Tây Bắc. Từ trên máy bay, vẻ đẹp kiều diễm của con sông tuôn dài như áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Dòng sông, mái tóc ấy tuôn dài theo câu văn của Nguyễn Tuân, xuyên qua mây, qua hoa, qua khói, qua những nương xuân xứ Mèo. Cảnh vật ven sông gợi tình, gợi cảm. Vẻ đẹp trinh nguyên và hồn nhiên của thiên nhiên hai bên bờ sông Đà trở nên thơ mộng và tĩnh lặng, làm cho người khách sông Đà ngẩn ngơ như nghe được tiếng nói của con hươu thơ ngộ kia. Giọng văn nhẹ nhàng, tha thiết, đằm thắm gợi tả sông Đà ở đoạn lững lờ như nhớ thương hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc đem đến cho người đọc cảm giác êm dịu sau khi đã vượt qua những đoạn văn “vô hồi kì trận” của thác đá sông Đà.
Ngôn ngữ của Nguyễn Tuân là thứ ngôn ngữ của cảm xúc và trí tưởng tượng bay bổng. Ngôn ngữ đó để tả cảnh, tả người, đồng thời là phương tiện cảm xúc để cái tôi tác giả ngây ngất, sau sưa trước từng nét vẽ của thiên nhiên, từng dáng vẻ của núi rừng, từng động tác của người nghệ sĩ chèo đò. Con sông đã đem đến niềm vui cho người nghệ sĩ, và là dịp để người nghệ sĩ được bộc lộ mình. Nhà văn thốt lên: Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài này rồi lại bắt ra sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình đã biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy. Ngôn ngữ giàu cảm xúc này của Nguyễn Tuân đã kéo người đọc “vào cuộc”, cùng với tác giả hành trình suốt sông Đà, khám phá cả mọi vẻ đẹp cũng như sự giàu có của nó.
Ông lái đò, người nghệ sĩ làm nghề chèo đò “tay lái ra hoa”, đồng thời là người lao động tài ba, dũng cảm được miêu tả trong sự tương xứng với tầm vóc vẻ đẹp và tính cách của “nhân vật” sông Đà. (Khái niệm con người tài hoa, nghệ sĩ của Nguyễn Tuân không chỉ ở những người hoạt động nghệ thuật như nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, điêu khắc, đào nương, kép hát,… mà cả ở những người không dính dáng gì đến nghệ thuật như uống trà, nhắm rượu, ăn phở, giã giò, thậm chí cả đao phủ, kẻ cắp,… miễn là trong nghề nghiệp của họ đạt đến sự tinh vi, siêu phàm). Khác với các nhân vật của Nguyễn Tuân trước cách mạng là những con người bơ vơ, lạc lõng, ông lái đò trong Người lái đò sông Đà là con người lao động bình thường và rất gần gũi. Tác giả giới thiệu: Ông lái đò Lai Châu bạn tôi làm nghề chở đò dọc suốt sông Đà đã mười năm liền và thôi làm đò cũng đôi chục năm nay. Làm nghề chèo đò có mười năm mà dấu ấn nghề nghiệp ghi rõ trên thân thể ông già này: tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù. Nghề lái đò trên sông Đà, sau hằng trăm chuyến ngược xuôi đã rèn luyện cho ông có một trí nhớ tuyệt vời lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở. Cuộc sống của người lái đò gắn với con sông Đà, không phải là chỉ chèo đò đơn thuần trên dòng sông mà là cuộc chiến đấu hàng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một.
Để làm nổi bật tài nghệ ông lái đò, Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một cuộc vượt thác của ông ta như một viên tướng ngày xưa lao vào trận đồ bát quái bố trí sẵn với rất nhiều cạm bẫy đặt ra hết vòng này đến vòng khác, mỗi vòng đều có “những viên tướng đá” nham hiểm, quái ác chờ sẵn và quyết tiêu diệt bằng được đối phương của mình. Đoạn văn dựng cảnh đầy giá trị tạo hình, giống như một cuốn phim quay cận cảnh cuộc chiến dữ dội và ác liệt trên một chiến trường mà chiến sĩ “ông lái đò” ở đây vô cùng dũng cảm và mưu trí, tả dột, hữu xung đầy kịch tính. Tác giả đã vận dụng nhiều kiến thức kĩ thuật quân sự và võ thuật để diễn tả “trận chiến” oai hùng này.
Qua đoạn miêu tả ông lái đò vượt qua con thác dữ, tác giả muốn nói rằng, chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có nơi chiến trường mà nó có ngay trong cuộc sống của nhân dân ta, hàng ngày phải vật lộn với thiên nhiên vì miếng cơm manh áo. Và trí dũng tài ba không phải tìm ở đâu, mà ở ngay cả người dân lao động bình thường kia. Cuộc đời của ông lái dò vô danh nơi ngọn thác hoang vu khuất nẻo kia là cả một thiên anh hùng ca, là cả một pho nghệ thuật tuyệt vời. Vì thế, vết bầm trên vai ông do cán chèo đè lên mà có được Nguyễn Tuân ca ngợi là thứ huân chương siêu hạng.
Ông lái đò làm nghề chèo đò, một nghề thường bị coi khinh trong quan niệm nghề nghiệp của nhiều người thì dưới đôi mắt của Nguyễn Tuân trở nên đẹp đẽ và cao cả. Nguyễn Tuân đã miêu tả cái phong thái tâm hồn của ông lái đò theo phong cách của người nghệ sĩ, việc vượt qua những con thác dữ là chuyện thường nhật, không có gì đáng nói, và cũng có khi như “cái thú bình sinh” của phong thái ông Huấn Cao trong “Chữ người tử tù”. Ông lái đò là kiểu nhân vật của Nguyễn Tuân trong những sáng tác sau Cách mạng, vẫn mang cốt cách tài hoa nghệ sĩ ấy nhưng hiên ngang, dũng cảm đối mặt với mọi hiểm nguy, vượt qua mọi khó khăn, thử thách để chiến thắng.

Hướng dẫn Đọc văn – Lam văn lớp 12 (Nguyễn Hữu Lễ – NXBGD)

Phân tích thơ Sóng (Xuân Quỳnh)

I.Khái quát về tác giả – tác phẩm

Xuân Quỳnh (1942-1988), là nữ thi sĩ viết về đề tài tình yêu hay nhất của thơ Việt Nam từ sau năm 1945. Xuân Quỳnh từng là diễn viên múa từ lúc 13 tuổi, được đi công diễn ở nhiều nước trên thế giới. Vì yêu thơ từ nhỉ nên năm 1962, bà chuyển sang hoạt động văn học. Cuộc đời Xuân Quỳnh chịu nhiều vất vả và trái tim đa cảm đã để lại trong thơ bà một dấu ấn sâu sắc: khát vọng sống, khát vọng yêu đương mãnh liệt cùng với những lo âu về sự suy biến, phai bạc cùng những dự cảm về bất trắc. Xuân Quỳnh được truy tặng Giải thường văn học Nhà nước năm 2001.

Thơ Xuân Quỳnh giàu cảm xúc với những cung bậc khác nhau như chính tính cách luôn hết mình của bà. Những bài thơ khi hạnh phúc đắm say, lúc đau khổ, suy tư của bà luôn gần gũi vì được viết với sự đằm thắm của một người phụ nữ vừa làm thơ vừa làm vợ, làm mẹ. Nhiều bài thơ của bà đã trở nên nổi tiếng như Thuyền và biển, Sóng, Hoa cỏ mây, Tự hát, Nói cùng anh v.v. Nhạc sỉ Phan Huỳnh Điểu đã phổ nhạc rất thành công các bài thơ: Thuyền và biển, Thơ tình cuối mùa thu của bà.

Sóng được in trong tập Hoa dọc chiến hào, xuất bản năm 1968. Bài thơ nói về tâm trạng, tình yêu mãnh liệt của người con gái khi yêu. Hãy đến với bài thơ bằng nhạc điệu, bài thơ là âm điệu của một cõi lòng bị sóng khuấy động, đang rung lên đồng điệu đồng nhịp với sóng biển. Rạo rực đến xôn xao, khát khao đến khắc khoải, có một hình tượng sóng được vẽ lên bằng âm điệu, một âm điệu dập dồn, chìm nổi, miên man như hơi thở chạy suốt cả bài.

Sắc điệu trữ tình của bài thơ được gợi lên từ hình tượng sóng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình xôn xao trong lòng người con gái đang yêu khi đứng trước biển ngắm nhìn những con sóng vô hồi, bất tận. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, đó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của nữ sĩ, lúc thì hòa nhập, lúc là sự phân thân của “em” – người con gái đang yêu một cách say đắm. Sóng đã khơi gợi một hồn thơ phong phú, hồn nhiên, sôi nổi. Thông qua hình thường sóng, Xuân Quỳnh đã có một cách nói rất hay để diễn tả tâm trạng của người con gái. […]

Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những “cuộc chia li màu đỏ”. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy, ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu

(Theo Bùi Minh Huệ)

 

II. Phân tích

Sóng là bài thơ tình được cất lên từ tiếng lòng của người phụ nữ đang yêu diễn đạt khát vọng hạnh phúc như một nhu cầu tự bộc lộ, tự nhận thức, khám phá. Vì thế, cảm xúc của chủ thể trữ tình vừa sôi nổi, mãnh liệt vừa gợi đến triết lí rất nhân bản về cuộc đời. Khi đọc bài thơ, phải thể hiện được âm điệu của các trạng thái cảm xúc, tương đồng nhưng cũng có khi trái ngược nhau.

Bài thơ Sóng được viết với thể thơ tự do năm tiếng và được chia thành khổ bốn câu đều đặn, trong đó có hai câu dường như tách ra thành khổ thì thiếu mà ghép vào khổ trước thì thừa ra (đây là dụng ý của tác giả). Thể thơ năm chữ với sự gieo vần gián cách để diễn tả tâm trạng được ẩn dụ hóa bằng hình tượng “sóng” thì thật hợp lí. Trong bài thơ, không chỉ có hình tường “sóng” mà còn có hình tượng “em”. Hai hình tượng này bổ sung cho nhau, có khi hình tượng “sóng” không diễn ra hết sắc thái, cung bậc tình yêu của “em” thì hình tượng “em” tách ra và đóng vai trò tự bạch.

Đọc bài thơ, ta như nghe được tiếng sóng, từng cơn sóng liên hồi, tiếp nhau, khi tuôn trào, khi lắng dịu. Sóng không chỉ là những trạng thái tình cảm của người con gái đang yêu mà còn thể hiện khát vọng hiểu mình. Thơ tình của Xuân Quỳnh thể hiện một nhu cầu khám phá tâm hồn, khám phá những giá trị lớn lao của tình yêu. Ẩn dụ cho khát vọng đẹp đẽ, đầy tính nhân bản đó, sông (ẩn dụ con sóng nhỏ) muốn vươn ra khỏi không gian chật chội, với những định kiến hẹp hòi, và ngay cả tính tự ti của người phụ nữ trong tình yêu mà tìm ra tận biển lớn cuộc đời để thành sóng (con sóng lớn ở đại dương), nơi đó giúp cho chủ thể trữ tình có được bản lĩnh vượt lên bản thân để nói lời yêu.

Đọc bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, người đọc còn nghe dược tiếng nói rất tự nhiên, rất chân tình, rất dễ thương của người con gái:

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu ?

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau.

Mới đầu đọc lên tưởng là Xuân Quỳnh muốn cắt nghĩa tình yêu, nhưng khi đọc đúng với giọng tự nhiên của người con gái (giống như đang trả lời một chàng trai nào đó) thì mới thấy hết được cách thể hiện tính chân thành đến mức như ngây thơ của người con gái. Chỉ có con gái mới bộc lộ tình yêu của mình như thế bằng cách nói như thế.

Biểu hiện của tình yêu là nỗi nhớ, nó như là một quy luật của trái tim. Xuân Quỳnh cũng nói đến nỗi nhớ trong tình yêu qua hình tượng “sóng”:

Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức.

Mượn sóng để nói tình yêu, mượn sóng để nói về nỗi nhớ anh, nhưng khi đọc những câu thơ này lên, nhất là bốn câu đầu thì ta cảm giác: hình như những câu thơ này để tả những cơn sóng biển thực sự. Xuân Diệu cũng đã nhân hóa cơn sóng biển theo kiểu  sóng vỗ bờ. Nhưng nếu không có hai câu đi liền sau thì không khéo Xuân Quỳnh bắt chước Xuân Diệu mất. Bốn câu đầu của khổ thơ thể hiện các loại sóng nhưng đều giống nhau là nhớ bờ không ngủ được. Nhưng bốn câu đầu này là để làm đòn bẩy cho hai câu sau vượt lên. Nói rằng “em nhớ anh không ngủ được” là không thật lòng, mà nói Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức mới thật đúng tâm trạng của người đang yêu. Lòng em (chứ không phải nỗi nhớ của em), lúc nào cũng nghĩ đến anh nên hình ảnh của anh đã ám ảnh cả trong giấc ngủ của em. Đặt mình vào tâm trạng của một con người yêu say đắm thì mới hiểu được câu thơ này. Nhưng nếu tách hai câu thơ Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức thành một khổ thơ độc lập thì hai câu thơ lại mang một ý khác. Hai câu thơ làm cho khổ thơ thiếu câu tạo nên khoảng lặng trong thơ, nghĩa là có những điều nói ra được, nhưng có điều không nói ra được bằng lời hoặc là không cần phải nói ra (nhất là trong tình yêu) đề người nghe tự nghiệm lấy. Ở đây, Xuân Quỳnh muốn thể hiện cả hai trường hợp để muốn đưa đến người đọc một điều: không có tình yêu nào giống tình yêu nào, muốn biết tình yêu, phải tự nghe trái tim mình nói, phải cảm nhận bằng trái tim.

Một trong những đặc điểm của tình yêu Xuân Quỳnh qua bài thơ Sóng là lòng chung thủy trong tình yêu. Xuân Quỳnh tự bạch như sau:

Dẫu xuôi về phương bắc

Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh một phương.

Trong bài thơ, Xuân Quỳnh nhắc đến hai lần từ “nghĩ” (Em nghĩ về anh, em; Nơi nào em cũng nghĩ). Xuân Quỳnh tin tưởng vào tình yêu của mình nhưng cũng hay trăn trở. Nếu đọc nhiều bài thơ khác thì mới hiểu được tâm trạng cũa Xuân Quỳnh trong tình yêu. Nhưng chỉ với bài thơ này, từ “nghĩ” thể hiện tính cách và bản lĩnh cũa Xuân Quỳnh trong tình yêu trước cuộc đời (có thể là sóng gió). Hai câu đầu của khổ thơ cho thấy sự thách thức của chủ thể trữ tình trước sự thay đổi về mặt không gian tạo nên sự xa xôi cách trở giữa hai người, hoặc cánh cửa tình yêu mở ra nhiều hướng. Hai câu sau của khổ thơ khẳng định tình yêu và lòng chung thủy của nhân vật trữ tình: dù ở đâu, nơi nào, hoàn cảnh, cuộc đời có đổi thay thì em cũng chỉ có một tình yêu duy nhất đối với anh.

Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh là tình yêu trong sáng và hướng ra cuộc đời, không phải là tình yêu vị kỉ.

Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa

Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ

Trước cuộc đời cũng như trước biển lớn, nhân vật trữ tình không rợn ngợp, không xao động mà vẫn tự tin, vẫn hướng về nó với những suy tưởng về sự vĩnh hằng, sự bất tử của tình yêu. Đến với tình yêu, Xuân Quỳnh muốn góp hạt muối tình yêu của mình trong bể mặn cuộc đời.

Thơ Xuân Quỳnh nói chung, bài thơ Sóng nói riêng, giàu tình cảm, thậm chí tình cảm còn rất sâu đậm; khuất sau tình cảm ấy là quan niệm về tình yêu, là những vấn đề có tính triết lí. Đấy là những triết lí nảy sinh từ đời sống, nảy sinh tính thực tiễn, giúp ích thật sự cho người đọc nhận thức và xủ lí việc đời, không phải thứ triết lí tự biện, viễn vong. Nói tình yêu nhưng để nói cuộc đời. Đó chính là thơ Xuân Quỳnh.

Bài thơ Sóng thực sự là một bài thơ đúng nghĩa của nó bởi bài thơ đã có tứ thơ. Không phải là lối tư duy về mối quan hệ giữa các mặt đối lập trong tự nhiên như trong thơ Đường thi (đối lập giữa những biểu hiện bên ngoài và tính chất bên trong), tứ thơ trong bài thơ của Xuân Quỳnh khai thác hai mặt đối lập bên trong của tâm trạng của người đang yêu: vừa tha thiết, say đắm nhưng lại vừa suy tư; rộng hơn là mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người trong việc mượn hình tượng sóng để biểu thị tình yêu; cùng với các mối quan hệ khác như tình yêu (thuộc về tâm trạng mang tính cá thể) và khát vọng tan ra trong biển lớn tình yêu (cái chung, cái khái quát). Bên cạnh đó, để thể hiện một tình yêu chân thành, say đắm, Xuân Quỳnh không những sử dụng ngôn từ trong sáng, giản dị mà ngay trong lời thơ là lời nói tự nhiên, cùng với những lời giàu chất suy tư làm cho bài thơ liền mạch giống như lời của tình yêu tự tuân chảy ra vậy. Vì thế, bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh đạt tới đỉnh cao của thơ viết về tình yêu.

 

(Hướng dẫn đọc văn – làm văn lớp 12)